Bài làm
Nguyễn Văn Thiều từng nhận xét: “Tố Hữu là một nhà thơ lớn. Nói đúng hơn, ông là nhà thơ lãng mạn cách mạng. Cả cuộc đời ông gắn bó với cách mạng. Thơ với đời là một. Trước sau đều nhất quán. Tố Hữu nhìn cách mạng bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ.” Quả đúng vậy, Việt Bắc đã gói trọn lại nét tâm tình, lãng mạn giữa cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Tám câu thơ mở đầu ngân lên đầy da diết, gợi chúng ta nhớ về những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm trong “Đất nước”.
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, mang trong mình tâm hồn của xứ Huế mộng mơ. Phải chăng bởi vậy mà những câu văn, vần thơ của ông đều thấm đượm chữ tình, chữ nhạc?Việt Bắc được sáng tác trong không khí vui tươi của chiến dịch Điện Biên Phủ đại thắng, đồng thời cũng thấm đượm ánh buồn của buổi chia tay khi những người kháng chiến rời miền cao để trở về. Tám câu thơ mở đầu chính là lời thủ thỉ tâm tình của người ở lại với người ra đi về niềm thương nỗi nhớ cùng nghĩa tình kháng chiến.
- “ – Mình về mình có nhớ ta?
- Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
- Mình về mình có nhớ không?
- Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”
Tố Hữu đã vô cùng tinh tế khi vận dụng chất liệu văn học dân gian từ thể thơ đến cách xưng hô thật bình dị mà ngọt ngào. Lời thơ mang âm hưởng như những lời tâm tình, thủ thỉ, gợi cho bạn đọc cảm giác gần gũi, thân thương. Người đi với người ở hay đồng bào vùng cao với những người chiến sĩ giờ đây gắn bó mật thiết như người một nhà “mình-ta”. Cặp từ hô ứng gợi ta nhớ về những vần ca dao xưa quen thuộc:
- “Mình nói với ta mình hãy còn son
- Ta đi qua ngõ thấy con mình bò
- Con mình những trấu cùng tro
- Ta đi xách nước rửa cho con mình.”
- Hay “Mình về có nhớ ta chăng
- Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”
Nhà thơ còn gợi về quãng thời gian “15 năm thiết tha mặn nồng”. Đó là quãng thời gian lịch sử hào hùng, thấm đấm máu, nước mắt và công sức của biết bao thế hệ con người, nhưng cũng là quãng thời gian tươi đẹp gắn bó keo sơn của tình quân-dân, đồng chí-đồng bào. Điệp từ “nhớ” tiếp tục được láy đi láy lại nhiều lần như lời gặng hỏi, gợi nhắc người đi xa liệu có còn nhớ về quãng thời tươi đẹp đó hay không. Nỗi băn khoăn cứ thế mở rộng ra cứ chiều rộng không gian rừng núi đại ngàn. Đi xa rồi, hình ảnh làng quê, rừng núi non sông nơi xa xôi này có còn lưu luyến trong trái tim mỗi người lính hay không. Hàng ngàn câu hỏi được đặt ra thôi thúc, dồn dập mong tìm được lời giải đáp. Giọng thơ bộc lộ nỗi niềm mong ngóng của người ở lại với người ra đi, đồng thời cũng khắc họa tình cảm gắn bó, thân thiết của con người với con người trong hoàn cảnh khắc nghiệt của lịch sử dân tộc. Những lời yêu thương cứ thế mở rộng ra miên man, da diết.
- “- Tiếng ai tha thiết bên cồn
- Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
- Áo chàm đưa buổi phân ly
- Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
“Tiếng ai”- cụm từ phiếm chỉ vô định, mông lung, “ai” là người vùng cao ở lại, nhưng cũng có thể là người chiến sĩ cất bước lên đường. Nhưng dù là ai thì tiếng nói ấy cũng khắc khoải, lưu luyến không rời. Họ ra đi mang trong lòng bao nỗi nhớ thương, luyến tiếc. Nhà thơ đã vô cùng tinh tế khi sử dụng phép hoán dụ “áo chàm”. Đây là trang phục truyền thục của đồng bào dân tộc nơi miền cao của Tổ quốc. Không nói rõ, không chỉ đích danh, chỉ một hình ảnh cũng đủ sức lan tỏa, sáng bừng không khí của cả bài thơ. Trong giây phút chia ly ngậm ngùi, đồng bào cùng chiến sĩ nắm tay nhau không rời. Bao nhiêu lời nói, bao nhiêu kỉ niệm giờ đây đều nhường chỗ cho những khoảng lặng của thời gian để lắng sâu, để cảm nhận, để lắng nghe những lời thủ thỉ từ tận trái tim mình. Cái cầm tay ấy như xóa bỏ hoàn toàn khoảng cách giữa miền ngược với miền xuôi, giữa dân với quân. Tất cả hòa chung trong không khí buổi chia tay, trong niềm vui say của chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử.
Sự gắn bó mật thiết cùng giọng thơ đằm sâu, triết lý của Tố Hữu gợi ta nhớ về những dòng thơ đầu tiên của “Đất Nước”- Nguyễn Khoa Điềm. Tuy được viết vào những thời khắc khác nhau, khởi nguồn cảm xúc từ hai trái tim khác biệt, nhưng cả hai thi phẩm đều gặp nhau trong cái gần gũi, thân thuộc của quê hương, đất nước. Họ đều tìm về cội nguồn dân tộc, gắn nó với vẻ đẹp truyền thống quý báu bao đời nay. Nếu như với Tố Hữu, cái kế thừa hiển hiện rõ trong thể thơ, cách xưng hô thì với Nguyễn Khoa Điềm, cái “xưa” của ông nằm trong từng từ từng chữ, trong mỗi hình ảnh giản dị mà thân quen.
- “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
- Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
- Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
- Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
- Tóc mẹ thì bới sau đầu
- Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
- Cái kèo, cái cột thành tên
- Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
- Đất Nước có từ ngày đó…”
Hình ảnh Đất Nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không hề xa xôi, không hề lớn lao vĩ đại mà rất gần gũi, thân quen. Nó gắn với những câu chuyện cổ tích diệu kì của tuổi thơ, gắn với những truyền thuyết, phong tục tập quán của dân tộc. Chính bàn tay những người dân lao động “xay, giã, giần, sàng,…”, chính mồ hôi công sức bao thế hệ nay đã vun đắp nên quê hương đất nước, làm nên nền lịch sử văn hóa lâu đời của dân tộc. Với Tố Hữu, dù có đi đâu về đâu, những người lính cũng luôn lưu giữ những hình ảnh tươi đẹp của mười lăm năm lịch sử, luôn khắc ghi công ơn, thành quả lao động của bản thân và cha ông. Dù cách biểu đạt có khác biệt thì họ vẫn gặp nhau trong tư tưởng gắn đất nước với nhân dân, gắn con người với cội nguồn lịch sử. Đó là truyền thống “uống nước nhớ nguồn” quý giá của cả dân tộc gìn giữ suốt bao đời.
Hai bài thơ, hai giọng điệu, hai tâm hồn nhưng cùng chung một trái tim gắn bó, thân thương với quê hương, đất nước. Tố Hữu và Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần không nhỏ trong công cuộc xây dựng nền văn học Cách mạng Việt Nam thêm hào hùng, tươi sáng hơn.